Thứ Ba, 18 tháng 8, 2015

“Chân dung biếm họa 100 nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại - Xuân Sách


Nhà xuất bản Văn học  in năm 1992
Chân dung biếm họa 100 nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại”
Bìa sách in lần đầu năm 1992, không phát hành rộng rãi.
Bìa sách in lần đầu năm 1992, không phát hành rộng rãi.
 Tâm sự tác giả
Những bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hồi ấy bước vào thập kỉ 60, tôi đang độ tuổi ba mươi, từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ quân đội ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội. Ngoài công việc của tòa soạn, thời gian chúng tôi dành nhiều cho học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối chỉ thị nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước mắt… đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi cả tuần cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao sau mỗi đợt học, nhận thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ. Các nhà văn, các họa sĩ, nhạc sĩ…thường ngồi tập trung với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về “hai phe, bốn mâu thuẫn”, về “ba dòng thác cách mạng”, về “kiên trì, tăng cường, nỗ lực, quyết tâm…” mấy anh văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao, hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm, nuốt vội khói nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi, chuyển sang “bút đàm”.
   Vào năm 1962, có đợt học tập quan trọng, học Nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hòa bình chủ nghiã, và dĩ nhiên văn nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt học này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng hắt lên như thiêu như đốt. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc phải tề chỉnh, đầy đủ cân đai bối tử, đi giày da, những đôi dày cao cổ nặng như cùm. Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giày đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi nói thêm về Vũ Cao, ông là người có biệt danh” quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Qui định ai vào phòng phải bỏ giầy dép trừ Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiên đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.
            Trong buổi lên lớp căng thẳng như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ bằng chữ Hán trao cho tôi. Ở Văn nghệ quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi chữ Hán, và tôi được gọi là Đồ Thanh bởi cũng võ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con đường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay “Đôi vai”, tiểu thuyết “Chuyển vùng”viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự; đã sửa chữa nhiều lần; đưa qua vài ba nhà xuất bản, chưa “nhà” nào chịu.
Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất hay và tôi phiên âm, dịch:
            Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân
            Mao đầu tận lạc tự mao luân
            Lưỡng kiên mai liễu phong trần lý
            Chuyển địa hà thời chuyển đắc ngân
   Dịch nghĩa:
Con đường văn nghiệp khá thương cho ông
Lông đầu ông đã rụng trụi như bánh xe
“Đôi vai” lầm lũi trên con đường gió bụi
“Chuyển vùng” đến bao giờ thì chuyển thành tiền được ?
 Dịch thơ:
            Con đường văn nghiệp thương ông
            Lông đầu rụng hết như lông cái đầu
            Đôi vai gánh mãi càng đau
            chuyển vùng nào nữa, làm sao thành tiền ?
 Dịch xong tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu, còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nỗi mặt đỏ bừng và nước mắt ràn rụa.
 Tự nhiên trong đầu tôi lóe lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung ! Trong bài thơ của Oánh phác họa một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép của tên tác phẩm“Đôi vai”, “Chuyển vùng”. Và sau chốc lát, tiếp tục “trò đùa” của Oánh, tôi viết bài thơ về Hồ Phương đang ngồi cạnh tôi, bài thơ số 1 về chân dung nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện của anh “Trên biển lớn”, “Xóm mới”, “Cỏ non” và cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy:
             Trên biển lớn lênh đênh sóng nước
           Ngó trông về xóm mới khuất xa
            Cỏ non nay chắc đã già
               buồn tênh lại giở thư nhà ra xem
         Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong, trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyền cho người khác. Đến giờ giải lao, chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh “Thằng này (chỉ XS) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi !”.
            Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn đụng chạm vào tính cách và sự đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn thì có gì quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm ?! Bài thơ ngụ ý rằng Hồ Phương viết nhiều chăng nữa vẫn không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ “buồn tênh lại giở thư nhà ra xem”.
            Trước kia, khi còn là lính địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy là những con người dị biệt, rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một “siêu đẳng cấp” trong xã hội. Mỗi hành động, cử chỉ lời nói của họ đều có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng phán xét thông thường. Tóm lại đó  là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tập tễnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi về Hà Nội tôi được vào một cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta, quân đội có một vị trí đặc biệt trong xã hội, kể cả lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước. Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước đây thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đấy là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu “vẽ”được chính xác những bức chân dung đó thì bộ mặt xã hội của thời đại họ đang sống đang viết cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn các nhà văn thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn. Những điều này tôi nhận ra sau một thời gian dài, khi những bài thơ chân dung lần lượt ra đời, được phổ biến không chính thức nhưng sâu rộng và dai dẳng, vượt cả mong muốn của tôi.
            Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sáng tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận xét về tính cách con người, tính cách nhà văn thì không ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có lối nhận xét người rất sắc sảo chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh không mấy thích thơ nhưng anh lại thích “thơ chân dung nhà văn”. Anh có nói đại ý là các nhà văn chúng ta quen đánh giá mọi lớp người trong xã hội thì cũng cần tự đánh giá giới mình, cũng có cái tốt cái xấu như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn nghệ quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức cổ súy tôi, đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng toilet cũ khoảng ba mét vuông. Do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng nên cái phòng vệ sinh đó biến thành “phòng văn”, được ốp gạch men trắng bóng lau sạch ngồi thật mát và thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài điếu thuốc lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói : “Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có con quỉ ám vào ông ấy”. Bởi Nhàn đánh giá tôi có một giọng điệu khác hẳn với những bài thơ không thuộc loại “chân dung”. Nhàn là người rất thuộc thơ, và khi bài thơ tôi vừa làm xong thường anh là người phổ biến rộng rãi. Một số anh em trẻ khác như Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách thường đem những bài thơ đó đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói bia hơi là “nhuận bút” đầu tiên nhưng không thuộc về người sáng tác mà về người phát hành.
            Tất nhiên những bài thơ đó được phổ biến rộng rãi trong giới nhà văn. Lúc đầu còn kín đáo, dần dần thành công khai và nhất là thành một “tiết mục” không thể thiếu trong những buổi liên hoan của anh em văn nghệ. Có một buổi khá đông đủ nhà văn, khi vào tiệc rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc thơ về các nhà văn có mặt lúc đó. Trong không khí như vậy, dù các anh các chị ấy có giận cũng cười xòa làm vui, riêng tôi thấy mình làm được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao nữa. Tôi nhớ sau buổi vui, anhNguyễn Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là châm chọc nhau. Ngay lúc đó một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi “châm chọc cũng cần có tài và có ích lắm chứ”.
  Những bài thơ ấy cũng được lan truyền trong nhiều giới khác. Hồi đótướng Lê Quang Đạo là phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, cấp trên của giới văn nghệ quân đội, ông rất thích những bài thơ chân dung. Thường trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ, ông đề nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú đó tuy có tính cách cá nhân  nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của các nhà văn, ngoài những tác phẩm của họ mà tôi hằng ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Sao thế nhỉ ? với bề dày tác phẩm như thế, vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế, một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài. . . Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, dối trá, và nhất là phải sợ hãi. Một lần trên báo đăng bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết theo “thời tiết” chính trị, quay ngược lại những điều vừa viết chưa lâu, Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi “Rất tiếc, một tài năng lỡ tàu”.
            Tôi không nghĩ mình đứng ra ngoài cuộc để phán xét, muốn làm cặp mắt thứ hai trong mỗi bài thơ để tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính phục tài tứ thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh khác. Mỗi lần gặp lại tôi, ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm cho tôi bối rối, phải chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện, tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, còn cho tôi là người có tình và ông thấy những gì tôi viết về ông có phần đúng, ông đề nghị chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua tấm kính, và các con ông òa khóc, tôi bỗng thấy mình như người có tội.
            Một lần tôi gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia đến chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc “Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đi vào cõi bất tử”.
            Điều tôi không ngờ là cụ Đặng Thai Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy, ngồi đặt cằm lên đầu gối cười khục khục. Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi “Thế còn Đặng Thai Mai ?”. Tôi lúng túng “ Viết về bác rất khó, cháu đang suy nghĩ, thưa bác”. Dường như ông cụ không tin lời tôi. Ít lâu sau cụ lại gọi đến “Anh viết về tôi rồi chứ ?”. Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến cái trò chơi chữ ngông nghênh này, hóa ra cụ quan tâm thật sự; khiến tôi vừa cảm động vừa thích thú. Nhưng biết sao được, viết về cụ thật là khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được.
            Còn cụ Nguyễn Tuân, con người vốn thích đùa một cách cao sang và thâm trầm, thích ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem, nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm !”.
            Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm”đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành khó ai vượt qua được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quì gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá lời cũng dễ hiểu, cái con “quỉ ám” nếu có thì cũng là sản phẩm của những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như trong nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau.
            Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó, không phải kì lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu truyền đến nay đã ba mươi năm. Đã có nhiều bài “khảo dị”, nhiều bài “ngoài luồng” cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là “một cái gì đó” như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu nó có ích thì tác giả cũng lấy làm mãn nguyện”
Ngày xuân năm Nhâm Thân
Xuân Sách

TƯ LIỆU CỦA N VĂN NHT TUN

Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, trung tướng Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng Lại Giang lúc đó là Trướng Chi nhánh NXB Văn Học tại TP HCM được nghe cuốn băng này và đề nghị  Xuân Sách cho xuất bản với tên “ CHÂN DUNG NHÀ VĂN”.
 Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành, nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết:
“Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến. Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi”.
  Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khới  nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.
 Lúc đầu Xuân Sách đặt tên tập thơ là “Lên chùa”, hàm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó.  Sau mới đổi tên là «Chân dung 100 nhà văn» 

LỜI NGƯỜI GÕ VI TÍNH VÀ BIÊN TẬP “CHÂN DUNG NHÀ VĂN» ONLINE

 Thuở nhỏ tôi cậu bé làng Đông Lao ngoại thành Hà Nội từng vùi đầu đọc cuốn truyện “Đội thiếu niên du kích Đình Bảng” của Xuân Sách. Đến tuổi thanh niên, hát mãi bài thơ “Đường chúng ta đi” của Xuân Sách theo nhạc Huy Du “Việt Nam trên đường chúng ta đi. Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó. Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời. Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước mà vui sao ta chẳng nói nên lời .  . . ”
Nhà thơ Ngô Xuân Sách quê xã Trường Giang huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Sau truyện đầu tay “Đội thiếu niên du kích Đình Bảng” ông còn viết tiểu thuyết “Mặt trời quê hương”,  “Rừng bên sông”, truyện ngắn “Cô giáo làng”  (trước 1975), hai tiểu thuyết “Phía núi bên kia”và “Cuộc hôn nhân bị đánh cắp” (sau 1975).
 Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lúc này tinh thần nhiều người trở nên uể oải, bi quan vì cuộc kháng chiến đã kéo dài quá lâu. Mặt khác những cái tiêu cực của chế độ XHCN bộc lộ từng mảng từng mảng khiến lòng tin bao người rã rời, ngơ ngác… Đây là lúc truyện tiếu lâm hiện đại mọc mầm và lan tỏa rộng rãi ở vùng Hà Nội. Thỉnh thoảng tôi nghe những bài thơ “dân gian” vịnh các nhà văn nhà thơ mà bật cười, chẳng mấy ai biết đấy là sáng tác của Xuân Sách. Không ai ngờ Xuân Sách là bởi giọng điệu thơ  Chân dung rất lạ…
 Khi biết là sáng tác của Xuân Sách, người đọc cảm phục bản lĩnh và tài hoa của nhà thơ . Một phong cách nhà thơ kẻ sĩ vừa cổ điển vừa hiện đại trong thơ ông. Cây bút của ông đứng cao hơn thời đại, rất hiếm có trong giới văn sĩ thời ấy.
 Tôi thử đặt tựa đề cho mỗi bài  theo hiểu biết của mình, từ đó làm cái mục lục bút danh.
Nhà thơ  được vịnh  sẽ nghĩ  thế nào về chân dung của họ ?
 Họ biết họ vẫn được sự cảm thông sâu sắc của Xuân Sách đồng thời họ phải cam chịu làm cái cớ cho nhà thơ châm biếm những cái non kém của thời cuộc, của chế độ xã hội …Họ làm cái thớt cho nhà thơ giận cá chém vào… Cũng có những người “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” nhưng không cãi được ! Chỉ đọc mà chơi thôi. Cái thú vị của văn chương là thế chăng ?
 Với sách này, cái tên Xuân Sách xứng đáng ghi vào dòng văn học trào phúng hiện đại của lịch sử văn học nước nhà. 
 Xuân Sách sáng tạo một thể tài trào phúng hiện đại độc đáo sau khi kế thừa Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, tiếng cười dân gian, tiếng cười chèo cổ …Thơ trào phúng Xuân Sách phát tán nhanh trong khí hậu văn chương tiếu lâm chính trị đang nóng lên ở đất Thăng Long Hà Nội. Có cái gì đó mới mẻ hiện đại trong thơ trào phúng Xuân Sách. Chỉ những người cầm bút chân chính mới viết được những lời đắng cay mà pha chút thân thiết đùa vui trong tình đồng chí đồng nghiệp.
 Tuy nhiên đọc thơ trào phúng Xuân Sách, ta thấy có một cái gì hẫng hụt. “Chân dung” như vậy ư ? Nghiêm túc mà nói, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, binh đoàn văn thơ với cây bút làm vũ khí đã đóng góp chiến công đáng kể ! Vậy nên chăng đặt tên tập thơ là 100 chân dung biếm hoạ ? Những nét tươi sáng tốt đẹp của chân dung thì mọi người đã biết, Xuân Sách không vẽ lại trong tập thơ này. Nếu chỉ đặt hai chữ “chân dung” thì không được công bằng toàn diện khi đánh giá 100 nhà thơ nhà văn Việt Nam ấy.
 Trước hết Xuân Sách là một người nghiên cứu văn học độc đáo, đọc mỗi nhà văn, ông bắt ngay được cái nét tầm thường tiêu cực của họ. Thực ra ông vẽ  kí họa  chứ không vẽ  được “chân dung” nhà văn.
 Bên cạnh cảm hứng trào phúng còn có cảm hứng bi kịch. Những nỗi đau không thể nói ra của nhà văn nhà thơ Việt Nam. Những hi sinh thầm lặng cắn răng chịu đựng cho sự nghiệp lớn của dân tộc. Bi thương chung và riêng biến thành cái cười cay đắng trong lời thơ Xuân Sách.
 Căn cứ Lời nói đầu của tác giả, năm Nhâm Thân là 1992. Đó là những năm tháng tưng bừng không khí Đổi Mới ở Việt Nam. Nghe nói tác phẩm sắp in, ông nghe bạn hữu can ngăn mà bản thảo phải đình lại. Tác giả bèn phát hành theo kiểu photocopy bản viết tay, truyền tay cho bạn bè photo tiếp sức. Thứ tự 100 bài có lẽ do tác giả đánh số tự nhiên theo thời gian viết ra chứ không có ý nào khác. Tôi nhận được tập bản thảo photo lần thứ “n” mờ mịt của thạc sĩ Phạm Xuân Đại một người bạn văn Hà Nội gửi cho,  rồi đánh máy lại, viết phần mở đầu bày tỏ mấy ý kiến riêng. Tôi in nghiêng những gì biết khá chắc đó là tên tác phẩm và ý thơ văn của nhà văn mà Xuân Sách đã  “mượn”, “tập”, “nhại” theo.
 Nỗi đau nhà văn không phải của riêng họ mà là nỗi đau chung của người trí thức Việt Nam một thời.
 Tôi in ra đây bài thơ nổi tiếng “Đường chúng ta đi” của Xuân Sách để bạn đọc đối chiếu sự khác biệt lạ lùng, sự đổi thay phong cách giọng điệu của nhà thơ độc đáo này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét